Chương 8
ĐẬU CHIÊM LONG XEM KỊCH
4.
Vào 23 tháng Chạp Âm lịch, sơn trang của Bạch Kiểm Lang tại Khẩu Bắc lại giăng đèn kết hoa, mọi thứ đều được chuẩn bị kỹ lưỡng. Trong sân viện có sân khấu xây bằng gạch đá, tuy không thể so với rạp hát, nhưng quy mô cũng không kém, xi măng vôi vữa trát đến mịn màng bóng loáng, bên dưới là bếp lò cỡ lớn, tương tự giường sưởi, bốn xà tám cột chống đỡ mái nhà, bề mặt chạm trổ, hai bên màn trướng buông rủ, kéo dài chạm đất, ngăn chặn gió lạnh. Chính giữa sân khấu treo tấm biển đen, trên đề bốn chữ vàng lớn “Biệt hữu động thiên”. Phía sau sân khấu là một dãy nhà ngói, chính diện có mấy bậc thang, nối thẳng với cửa ra vào sân khấu, hai bên cánh gà nối liền với sáu gian phòng nhỏ, những lúc diễn kịch sẽ trở thành hậu trường, trong phòng đèn đuốc sáng trưng, gương soi, chậu rửa mặt, bàn trang điểm.v.v… thứ gì cũng có. Trước đài dựng một chiếc lều lớn, cổng vào có màu vàng đỏ, nổi bật không khí vui mừng, trong lều có tám tấm bình phong chạm trổ hoa văn, mỗi tấm là một điển cố, xung quanh đặt chậu than, bàn trà/băng ghế xếp ngay ngắn gọn gàng, vị trí trung tâm đặt một chiếc ghế thái sư nạm vàng, bên trên trải da báo. Thọ đường lập tại chính sảnh, dưới đất trải thảm màu đỏ tươi, hai bên là bình sứ cắm lông khổng tước, đèn lồng treo cao, giữa phòng treo chữ “Thọ”, câu đối không gì ngoài “Phúc như Đông hải, thọ tỷ Nam sơn” .v.v… trên mặt bàn bày tượng Thọ Tinh bằng vàng ròng, ngọc bích điêu khắc hình đào thọ, nến thọ, mặt đất để nệm hương bồ, để đám con cháu/tiểu bối cùng thuộc hạ dập đầu bái lạy Bạch Kiểm Lang. Đầu bếp chuyên môn đến từ quan ngoại, giết bò mổ dê, chuẩn bị đủ món sơn hào hải vị, mì thọ, đào thọ, bánh thọ, các loại điểm tâm đa dạng phong phú. Tuy nhiên người dự tiệc chỉ có đám huynh đệ vào sinh ra tử với Bạch Kiểm Lang, quản lý lò bạc, trông coi Sâm Bang, không mời khách tại Khẩu Bắc, cũng không công khai trước công chúng, bởi cường long khó ép địa đầu xà, Khẩu Bắc không thể so với núi Quan Đông, nơi đây là thiên hạ của Bát Đại Hoàng Thương cùng Cái Bang-Toả Gia Môn, kiểu gì cũng nên kiềm chế một chút. Còn một lý do quan trọng khác, chính là một đám ô hợp tụ tập chè chén, nhất định rượu vào lời ra, nhắc đến chuyện cũ, khoe khoang chiến tích/thủ đoạn giết người cướp của, có người ngoài ở đây sẽ rất bất tiện.
Gánh hát của Đậu Chiêm Long thuê mấy chiếc xe ngựa, mang theo phục trang/dụng cụ, sáng sớm kéo nhau tiến vào sơn trang. Người hầu dẫn bọn họ đến hậu trường, mời đào hát nổi tiếng Phi Lai Phượng vào phòng riêng, pha ấm trà ngon, bê lên bốn đĩa điểm tâm, lại giúp nâng hòm hoá trang vào trong. Những người còn lại ai làm việc nấy, bày ra mũ mão, y phục, giày ủng, xe kiệu/cờ xí, giá để đao thương, gương đồng, hộp đựng phấn son.v.v.. Các diễn viên vội vàng vẽ mặt, làm tóc, dán râu giả, mặc áo, đi giày… kẻ thì đá chân/vặn eo khởi động, người thì tìm nơi vắng vẻ, tranh thủ luyện giọng, bầu gánh chỉ đạo phía trước sân khấu, chuẩn bị phông cảnh, nhạc công điều chỉnh dây đàn, đám đồ đệ nhỏ tuổi ngồi một bên nhìn chằm chằm. Không phải sợ ăn trộm, mà vì thời xưa quy củ gánh hát rất nhiều, trước khi mở màn không được để dây đàn phát ra âm thanh, bằng không lên sân khấu sẽ bị quên lời. Những thứ khác cũng phải tìm người chuyên môn trông coi, đặc biệt là hòm áo khoác, không được để bất kỳ kẻ nào dựa dẫm, càng không thể ngồi lên trên, bởi bên trong đặt bài vị Tổ sư gia, ngồi trên chính là đại bất kính, chỉ duy nhất người đóng vai hề có thể ngồi, theo quy củ thời xưa, “Vai hề” trong gánh hát địa vị tối cao, nếu xảy ra cãi cọ hay va chạm gì đó, đều do hắn ra mặt giải quyết.
Đám người Đậu Chiêm Long đều giấu dao găm sắc bén, bên ngoài mặc áo bông vải thô, đội mũ nỉ giả làm tạp dịch, cùng người trong gánh hát bận rộn chuẩn bị. Buổi trưa, sơn trang bày tiệc rượu, từ đại sư phụ đến tiểu nhị sau bếp đều vội đến chân không chạm đất, trước sau đồng loạt ra trận, chảo trên bếp thay phiên nhau lật, gà hầm, vịt om, cá hấp, chân giò kho, thịt nướng, thịt viên Tứ Hỷ đựng trong bát sứ lớn, chính giữa là một chậu Bát Tiên Lỗ, một chậu mì thọ, trên dưới nhà họ Bạch, chẳng phân biệt chủ tớ sang hèn, tính cả khách đến mừng thọ, toàn bộ đều ăn giống nhau. Riêng nghệ sĩ và người trong gánh hát bày mấy bàn rượu cùng thức ăn trong hậu trường, nghề này chú ý no thổi đói hát, nhạc công thổi kèn thổi sáo cần ăn no uống đủ, âm thanh thổi ra mới có tự tin, diễn viên hát kịch muốn vận khí lấy hơi từ đan điền, ăn quá nhiều bụng sẽ trướng to, thanh âm phát ra không nổi, trước khi lên sân khấu nên ăn ít, cái này kêu “Bụng đói giọng đầy”. Ngoài ra còn phải chú ý đến loại thức ăn, quá lạnh quá nóng không thể ăn, tránh tổn thương thanh quản; quá mặn quá ngọt không thể ăn, dễ khiến giọng bị khàn; quá dầu mỡ không thể ăn, sợ giọng nói bị khê; quá cứng cũng không thể ăn, sẽ tổn thương cổ họng… tóm lại phải kiêng gần như toàn bộ.
Thịt viên Tứ Hỷ
Gánh hát khi ăn cần tuân theo quy củ, nhưng người của Bạch phủ thì không, phần lớn có xuất thân thổ phỉ/đạo tặc, ban đầu còn tỏ vẻ lịch sự, trông cũng ra dáng con người, nâng ly chúc Bạch lão gia “Phúc như Đông Hải trường lưu thủy, thọ sánh Nam Sơn bất lão tùng”, thế nhưng mấy chén xuống bụng, tên nào tên nấy liền lộ nguyên hình, phanh áo xắn tay, đập bàn dẫm ghế, nói chuyện bằng nắm đấm, ư ử hát lời tục tĩu, náo loạn đến chướng khí mù mịt. Đám người ở Bạch phủ ăn uống đến tận chiều, cơm no rượu say, sang giờ lành chuẩn bị cúng bái tổ tiên. Vẫn giống như những năm trước, thê thiếp con cái, người không liên quan quay về phòng, đóng cửa kín mít, nghe thấy gì cũng không được ra ngoài. Bạch Kiểm Lang rời khỏi chính đường, phân phó bốn tên hầu bị câm, mang đến tiểu thiếp do hắn chỉ định. Nói là tế tổ, thực ra là tế đao. Cả đời Bạch Kiểm Lang vinh hoa phú quý, toàn dựa vào bảo đao bên người, vì thế vào ngày chúc thọ hàng năm, hắn đương nhiên phải tế bảo đao trước. Tế đao không thể không thấy máu, giết gà giết dê không thoả mãn, hắn muốn giết người sống!
Trước khi Bạch Kiểm Lang vào rừng làm cướp, cuộc sống vô cùng nghèo khó, quần áo không đủ mặc, lương thực không đủ ăn, không mảnh ngói che thân, không tấc đất cắm dùi, một mình trú tại ngôi miếu rách nát, trộm cắp sống qua ngày. Một lần có ông lão qua đường, lưng cõng một thanh trường đao dán niêm phong, đến miếu hoang tá túc. Bạch Kiểm Lang chẳng quan tâm, nơi này không phải nhà hắn, thỉnh thoảng vẫn có khách vãng lai, ăn mày vào nghỉ tạm, cho nên không cần chào hỏi đón tiếp. Nào ngờ đêm hôm đó, hắn nằm mơ thấy một con sói hung dữ nằm trong miếu, bị phong ấn không thể động đậy, nửa đêm hắn mắc tiểu tỉnh dậy, nương ánh trăng chiếu qua lỗ thủng trên nóc nhà, chỉ thấy ông lão kia đang ngủ dưới chân tường, làm gì có sói dữ? Bạch Kiểm Lang thoáng giật mình, thầm đoán đây có lẽ là một thanh bảo đao, rón rén bê cục đá lớn, đập mạnh xuống đầu ông lão, óc văng tung toé, chết ngay tại chỗ, sau đó xé giấy niêm phong, biến bảo đao thành của mình, từ đây kéo bè kéo cánh, vào núi sâu rừng già làm cường đạo.
Càng giết nhiều người, đao của hắn càng sắc bén. Năm đó hắn ở quan ngoại, một đao cắt đầu Tái Đát Kỷ, dựa vào luồng sát khí này, dẫn thủ hạ huyết tẩy đại viện nhà họ Đậu, cướp đi sáu lu vàng, từ đó trở đi, mỗi lần hắn tế đao đều giết một tiểu thiếp của mình. Bạch Kiểm Lang tham dâm háo sắc, thê thiếp thành đàn, chính hắn cũng không biết mình có bao nhiêu vợ con, đi đến đâu, thấy nữ nhân nhà nào xinh đẹp, mặc kệ có chồng hay chưa, liền cướp về làm vợ, ném hai lượng bạc làm sính lễ, hé răng nói nửa chữ “Không”, lập tức ăn ngay một đao. Thê thiếp trong nhà quá nhiều, ăn uống no đủ lại rảnh rỗi, không tránh khỏi kiếm chuyện gây sự, cãi vã đánh nhau, cả ngày gà bay chó sủa, khiến hắn cảm thấy tâm phiền ý loạn. Mắt Bạch Kiểm Lang không chứa nổi hạt cát, càng không biết thương hương tiếc ngọc, ai chọc hắn giận, trở mặt còn nhanh hơn lật sách, vì thế lập ra một quy tắc: trong số thê thiếp của hắn, chỉ cần phạm sai lầm, hắn thấy không vừa mắt, cưới về rồi hối hận hoặc mãi không mang thai, vào ngày 23 tháng Chạp Âm lịch, sẽ chọn một người để tế đao, tuyên bố với bên ngoài là chấp hành gia pháp, sau đó đuổi thê thiếp không giữ phụ đạo ra khỏi nhà, từ nay không được xuất hiện trước mặt hắn. Người nhà họ Bạch chẳng hay biết gì, không ai được phép hỏi, cũng chẳng ai dám hỏi, thế nhưng trong lòng không khỏi suy đoán, tin đồn trong phủ chưa bao giờ gián đoạn.
Trong sách không nói nhiều, chỉ biết bốn tên hầu câm nhận lệnh, dẫn tiểu thiếp kia tiến thọ đường. Bạch Kiểm Lang sớm đã chuẩn bị xong xuôi, đầu đội mũ lông chồn, thân mặc áo đỏ, bên trên thêu chữ Thọ, chân xỏ ủng sa tanh mũi vểnh kiểu Như ý. Tiểu thiếp kia mặc áo bông viền lông xanh, son phấn trên mặt dày đến nửa tấc, ngày thường ở hậu trạch quen thói ngồi lê đôi mách, tính tình chanh chua, hùng hổ doạ người, thời khắc này tâm thần hoảng hốt, quỳ gối dưới đất, toàn thân phát run, chưa kịp kêu rên đã bị bốn tên hầu câm dùng dây thừng trói lại, miệng nhét vải rách. Lại nhìn Bạch Kiểm Lang, cẩn thận tháo xuống bảo đao, hai tay nâng lên, cung kính đặt tại giá đao trên bàn thờ. Cả đời hắn đao không rời thân, bất luận đi đứng nằm ngồi, cưỡi ngựa/đi đường cõng sau lưng, ngồi nắm trong tay, nằm đè dưới gối, quanh năm suốt tháng chỉ có thời khắc này, hắn đặt bảo đao lên giá thờ. Bốn tên hầu câm biết chủ tử muốn giết người, sợ bị ngộ thương, vội vàng tránh ra thật xa. Bạch Kiểm Lang nghiến răng trợn mắt, chỉ vào mũi tiểu thiếp răn dạy một hồi, nói cô ta ăn cây táo rào cây sung, châm ngòi thị phi, không tuân thủ bổn phận, xưa nay giặc ngoài dễ bắt, cướp nhà khó phòng, lão tử có mắt như mù, cưới phải người xui xẻo như ngươi! Vải trắng làm áo bông - dù sao tất cả đều do hắn làm chủ, càng nói càng giận, vươn tay giật vải rách trong miệng tiểu thiếp, lạnh giọng quát: “Ngươi còn lời gì muốn nói?” Tiểu thiếp run bần bật, nước mắt giàn giụa, cho dù đầy bụng ủy khuất, cũng không dám rên một tiếng. Bạch Kiểm Lang mắng chửi hồi lâu, cơn giận cũng nguôi ngoai, xoay người đốt một nén nhang, cắm vào lư hương, hai mắt khép hờ, trong miệng lẩm bẩm, kéo vạt áo trước quỳ xuống, dập đầu bái lạy bảo đao, sau đó chậm rãi đứng dậy, nhấc đao khỏi giá. Chờ hắn quay lại, khuôn mặt dữ tợn đã phủ đầy sát khí, tay trái nắm vỏ đao, tay phải rút bảo đao, chỉ là người có lỡ tay, ngựa có lỡ móng, rút liền ba lần, thế nhưng đao không ra khỏi vỏ. Tiểu thiếp sợ tới mức hoa dung thất sắc, luôn miệng van xin: “Lão gia tha mạng… Lão gia tha mạng!” Bốn tên hầu câm miệng không thể nói, trong lòng cũng cảm thấy kỳ quặc, bọn hắn từng thấy chủ tử giết người, lần nào chẳng vung tay chém xuống, đầu mình hai nơi? Sao lúc này không thể rút đao ra khỏi vỏ?
Bạch Kiểm Lang cũng hốt hoảng, từ ngày hắn vào rừng làm cướp đến nay, ăn thịt có khả năng cắn phải đầu lưỡi, nhưng rút đao giết người chưa từng thất thủ, tốc độ còn nhanh hơn bổ dưa. Vốn tưởng một đao chém xuống, đầu tiểu thiếp liền rơi khỏi cổ, lẽ nào do mình lớn tuổi, tay chân trì độn, không thể rút đao ra khỏi vỏ. Hắn âm thầm cảm thấy điềm xấu, tuy nhiên chỉ trong tích tắc, liền ổn định tâm thần, dù sao cũng là trùm thổ phỉ, bất luận ở địa phương nào, trước mặt ai, hắn đều tỏ vẻ hung mãnh, sợ đánh mất uy phong, hiển lộ điểm yếu, sau này khó lòng phục chúng. Mấy tên hầu câm chưa kịp phản ứng, Bạch Kiểm Lang đã một lần nữa nắm lấy chuôi đao, dùng hết sức lực, rút bảo đao ra khỏi vỏ, chỉ thấy hàn quang chợt lóe, tiểu thiếp đang quỳ dưới đất, hai mắt loạn chuyển, đang muốn dập đầu xin tha, nhìn lão gia chém xoẹt một cái, đầu người lăn long lóc, máu tươi bắn tung toé!
Bạch Kiểm Lang giết người xong thu đao vào vỏ, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, ngồi ngay ngắn giữa thọ đường. Bốn tên hầu câm lau sạch vết máu trên nền nhà, thu dọn thi thể, cuốn vào trong tấm nệm mỏng, khiêng ra từ cửa phụ chôn sau núi, đầu thì không chôn mà ném xuống khe suối cho sói ăn, nghe nói thân đầu hai nơi, làm quỷ cũng là quỷ không đầu, không được vẹn toàn, không thể đầu thai. Bên này kêu người dọn thi thể, bên kia phân phó thuộc hạ đi châm lửa đốt đèn, thê thiếp các phòng, khách khứa chờ ở cửa, theo thứ tự từ cao xuống thấp, từ già đến trẻ, từ xa đến gần, lần lượt đi vào, dập đầu chúc thọ Bạch Kiểm Lang.
Khách dự tiệc đều mang theo quà chúc thọ, chẳng ai đến tay không. Cho dù Bạch Kiểm Lang gia tài bạc triệu, không thiếu thứ gì, nhưng quà tặng quý trọng, mới thể hiện trong lòng có Bạch gia. Nếu vị nào dâng lễ không được ưa thích, đừng trách Bạch Kiểm Lang ngó lơ ngươi. Mọi người nắm rõ Bạch Kiểm Lang sở thích, tuyệt không sẽ đưa câu đối tranh chữ, ấm tử sa, đồ đồng/đồ sứ, Bạch Kiểm Lang chữ to không biết, không hứng thú gì với mấy thứ này, bất kể ngươi tiêu bao nhiêu bạc, trong mắt hắn bùn đất cũng chẳng bằng. Cái gì mà lông chồn nhân sâm, hổ cốt xạ hương.v.v… Bạch Kiểm Lang đều chướng mắt, núi Quan Đông không thiếu đặc sản, liếc mắt liền có người dâng đến trước mặt, da hổ dùng để thấm nước tiểu, nhân sâm coi như củ cải mà ăn, tặng hắn khác gì không tặng. Mọi người vắt óc suy nghĩ, tìm đúng thứ hắn yêu thích, thọ lễ dâng lên đều rất phong phú, có sống có chết. Vậy chết là cái gì nào? Bạch Kiểm Lang cướp sáu lu vàng lập nghiệp, xem trọng nhất vẫn là vật làm bằng vàng, thọ lễ không thể thiếu bát/đĩa/chậu/chén vàng, còn cả cái bô đúc bằng vàng ròng… Mỗi thọ lễ được dâng lên, đám người xung quanh đều reo hò ầm ĩ, đặt trong thọ đường, kim quang lấp lánh, khiến người loá mắt. Còn vật sống là thứ gì đây? Có người trực tiếp dắt đến một con bảo mã lương câu màu đỏ thẫm, thân cường thể tráng, yên dát vàng, cương bọc bạc, đến bàn đạp cũng được đúc bằng vàng ròng; có người lại dâng lên mỹ nữ người Hồ, ánh mắt long lanh, nụ cười quyến rũ, có thể gọi là vạn người mê. Nếu là trước kia, ngươi tặng mỹ nhân cho Bạch Kiểm Lang, hắn nhất định sẽ cao hứng, nhưng hiện giờ Bạch Kiểm Lang một lòng nhớ nhung Phi Lai Phượng, coi thường những người đẹp khác. Một đám thay phiên tiến vào dập đầu dâng lễ vật, trời tối mới coi như hoàn tất, buổi trưa tiệc tan muộn, có người đói có người không, gia chủ lại khai tiệc tối, ai muốn ăn thì đi, không muốn ăn thì xem kịch. Bạch Kiểm Lang đắc ý thỏa mãn, ăn uống xong xuôi, xách bảo đao vào lều, nghênh ngang ngồi xuống vị trí chính giữa sảnh đường, bộ dáng còn hơn Vương gia hoàng tộc. Mấy thê thiếp tranh nhau lấy lòng, biết hôm nay là ngày đại hỷ, hương phấn đắp thật dày, má hồng xoa thật đỏ, môi cũng bôi đỏ chót như vừa uống máu trẻ con, trên người mang đủ loại trang sức lộng lẫy, vàng bạc phỉ thuý, thứ gì cũng đeo, đi đường kêu leng ca leng keng, miệng không ngừng hô “Lão gia này lão gia nọ”, người thì bóp vai, người thì đấm chân, còn có người rót trà châm thuốc hầu hạ. Bạch Kiểm Lang chuyên môn phân phó người hầu, dùng cả cây sâm thượng đẳng pha trà, tăng cường thể lực, bổ sung nguyên khí. Lúc này sân khấu đã thắp đèn đốt nến, trong lều cũng đốt đèn Dương Giác*, bầu gánh thấy Bạch Kiểm Lang ngồi ngay ngắn, vội phất tay ra hiệu. Theo quy củ trong gánh hát, dưới đài nghe bầu gánh, trên đài hết thảy nghe người đánh trống, vị trí hắn ngồi gọi là “Cửu Long Khẩu”, từ lúc mở màn đến khi kết thúc, người khác có thể di chuyển, riêng hắn thì không, nếu hắn không nổi trống, những nhạc cụ còn lại không được phép động. Chỉ thấy một người cầm hai thanh trúc gõ xuống, một tràng chiêng trống phèng la vang lên, cái này kêu “Đả thông nhi”, thời điểm âm thanh ngừng lại, trên đài sẽ diễn một màn “Thiên Quan Chúc Phúc”, Phúc Đức Tinh Quân mời các phúc thần hạ giới, ban phát phúc lộc, Trương Tiên đưa con, Thần Tài tặng vàng. Trên đài bận rộn, Chu Nhị Diện Tử cũng không nhàn rỗi, lúc trước hắn cùng Bạch Kiểm Lang ganh đua thưởng tiền tại “Bảo Nhạc Trà Viên”, không dám lởn vởn trước mặt, hạ thấp vành nón, tranh thủ di chuyển khắp nơi trong sơn trang, gặp người liền hỏi: “Sao ngài không xem kịch?” Trông thấy tôi tớ, đầu bếp, hầu gái còn đang dở tay làm việc, Chu Nhị Diện Tử liền sán lại tỉ tê: “Chúng ta chính là gánh hát đến từ Tây Kinh, tám mười năm cũng không có cơ hội gặp một lần, hôm nay tới tận cửa biểu diễn, còn chờ gì mà không mở mang tầm mắt? Mau tranh thủ xem một lát, xong rồi lại tiếp tục làm việc, không nên chậm trễ, bỏ lỡ dịp may!” Hắn dùng ba tấc lưỡi không xương, khiến ai cũng nóng lòng sốt ruột, đám người nấu nước sôi, thu dọn bàn bếp, cọ nồi rửa chén, quét rác gõ mõ, tuần tra ban đêm.v.v… đều tới lều xem diễn kịch, băng ghế phía trước không còn chỗ trống, phía sau cũng chen chúc, kiễng chân rướn cổ, mở to mắt nhìn trên đài.
Đèn Dương Giác
hay còn gọi là đèn sừng dê.
Sừng dê được nghiền thành bột phấn, trộn với dung dịch đặc biệt, sau đó làm thành chụp đèn, vừa chắn gió lại chống cháy, thường được dùng trong hoàng cung hay phủ đệ của quý tộc thời xưa.
Tiếp theo chính là mấy trích đoạn, nào là “Long Phụng Trình Tường”, nào là “Phú Quý Trường Xuân”, lại an bài mấy tiết mục xiếc khỉ, mũi tên xuyên táo…làm không khí thêm phần náo nhiệt, người xem thích thú, lúc này, Phi Lai Phượng mới lên đài, bắt đầu diễn “Điều Nguyên Nhạc”. Nội dung chính là hội bàn đào mừng ngày sinh Vương Mẫu Nương Nương vào mùng 3 tháng 3 Âm lịch, thần tiên khắp nơi đến chúc thọ, Phi Lai Phượng giả thành Ma Cô (nữ thần trường thọ trong truyền thuyết cổ đại Trung Quốc), dùng linh chi ủ rượu tặng Vương Mẫu bên bờ sông Giáng Châu. Ra sân khấu lúc này không chỉ có bốn vị tiên tử Bạch hoa, Mẫu đơn - Thược dược - Hải đường, mà còn có Vương Mẫu Nương Nương cùng bốn cung nga, rồi còn Hà Tiên Cô trong Bát Tiên, người nào cũng trang điểm ăn mặc xinh đẹp, trên sân khấu thủy tụ bay lượn, váy lụa thướt tha, khiến người xem hoa cả mắt, thế nhưng chẳng ai sánh kịp với Phi Lai Phượng, tiết mục đặc biệt chúc thọ Vương Mẫu Nương Nương, dựa vào cơ quan thiết kế trên sân khấu, Phi Lai Phượng “từ trên trời giáng xuống”, chẳng khác gì thiên nữ hạ phàm, Thường Nga bay lượn trên Cung Quảng Hàn, đám người bên dưới há hốc miệng, xem đến nhập thần. Vừa chạm chân xuống đài, Phi Lai Phượng nâng chén rượu linh chi, dẫn đầu đám con hát dàn thành hàng ngang, đồng loạt hành lễ, hát vang lời chúc: “Cung chúc Bạch đại gia, niên niên hữu kim nhật, tuế tuế hữu kim triều!” Dưới đài tiếng vỗ tay/lời khen vang lên như sấm. Bạch Kiểm Lang đôi mắt sắc bén, nhìn chằm chằm Phi Lai Phượng, khuôn mặt bất biến, rốt cuộc khẽ nhếch miệng cười, từ kẽ răng nhả ra một chữ: “Thưởng!” Thủ hạ khom mình đáp “Vâng!”, lập tức chuẩn bị một khay gỗ đỏ chất đầy kim nguyên bảo, kêu bốn tên hầu đặt lên sân khấu, nói đây là tiền thưởng thêm. Phi Lai Phượng là đào hát hạng nhất, không thể tự mình đích thân nhận bạc, cho nên sai tạp dịch trong đoàn hát ra tiếp, hướng Bạch Kiểm Lang thi lễ tạ ơn, thẹn thùng liếc mắt, nghiêng đầu nâng tay áo, nhẹ nhàng lắc hông bước xuống đài.
Ma Cô chúc thọ
Theo sắp xếp của Đậu Chiêm Long, gánh hát dốc hết sở trường, sau khi Phi Lai Phượng xuống sân khấu, trên đài liền diễn “Bát Tiên Chúc Thọ”. Khách khứa gia quyến trong sơn trang tiếp tục xem kịch, Bạch Kiểm Lang lại ngồi không yên, hôm nay từ lúc mở mắt, trong đầu hết thảy đều là Phi Lai Phượng dung nhan như ngọc, cố gắng nhịn đến bây giờ, lửa nóng từ đan điền đã xông thẳng lên não, thò tay móc củ sâm trong ấm trà, bỏ vào mồm nhai mạnh mấy cái, đứng dậy phân phó hạ nhân không cần bám theo, lưng cõng bảo đao, quấn chặt áo khoác trên người, rời lều đến thẳng hậu trường. Bạch Kiểm Lang lòng nóng như lửa đốt, một mình vòng ra phía sau. Bầu gánh vội vàng ngăn đón: “Đại gia dừng bước, ngài không xem kịch sao?” Bạch Kiểm Lang trừng mắt: “Xem cái gì? Ta tìm Phi Lai Phượng!” Bầu gánh cười xum xoe: “Đại gia đại gia, ngài cũng không thể vào trong.” Bạch Kiểm Lang nhíu chặt lông mày: “Tại địa bàn của lão tử, còn phải nghe ngươi sao?” Bầu gánh nói: “Không phải có hay không, là ta sợ làm ngài mất hứng, tại lúc trước không nói rõ với ngài, Phi… Phi Lai Phượng…” Bầu gánh lắp bắp ấp úng, Bạch Kiểm Lang càng sốt ruột: “Có chuyện mau nói, có rắm mau thả, Phi Lai Phượng làm sao?” Bầu gánh dậm chân: “Phi Lai Phượng hắn hắn hắn… hắn không phải nữ nhân!” Bạch Kiểm Lang sững người, còn tưởng mình ù tai nghe nhầm, túm cổ áo bầu gánh, hỏi: “Ngươi nói cái gì?” Bầu gánh mặt mày ủ rũ, nói thêm lần nữa: “Phi Lai Phượng… không phải là nữ!” Bạch Kiểm Lang bị sắc đẹp mê mẩn tâm thần, lửa trong người như thiêu như đốt, nào còn lo nhiều như vậy, giận dữ mắng: “Cút sang một bên, ngươi tưởng ta chưa thấy đàn bà bao giờ chắc? Có phải nữ hay không, hôm nay cũng phải hầu hạ ta!”
Bạch Kiểm Lang không nghe phân trần, gạt bầu gánh qua một bên, tung chân đá văng cửa. Hậu trường rộng mở, bảy tám con hát đang ngồi nói chuyện, thấy hắn mặt đỏ tía tai cầm đao xông vào, ai nấy đều kinh hoảng. Bạch Kiểm Lang không để ý bọn họ, tay trái nâng mành, lập tức tiến vào một gian phòng, bên trong phòng thắp mấy ngọn đèn dầu, ánh lửa chập chờn, mùi hương phấn nồng nặc, khiến người nhức mũi. Phi Lai Phượng đang ngả mình trên tràng kỷ đối diện, nhỏ giọng cười khúc khích. Bạch Kiểm Lang thầm nói: “Rõ ràng là tiểu hồ ly, thế nào lại kêu không phải nữ nhân! Bầu gánh đúng là ăn gan hùm mật gấu, dám lừa dối lão tử, chờ ta vui vẻ cùng Phi Lai Phượng, sẽ ra tay thu thập ngươi!” Hắn cười lớn hai tiếng, trở tay đóng cửa, xông lên ôm Phi Lai Phượng, người đẹp da trắng thịt mềm, hương thơm phảng phất. Phi Lai Phượng không gấp không bực, nghiêng đầu mỉm cười, má đào mắt hạnh, miệng nhỏ hơi cong, khêu gợi dục vọng: “Bạch gia gấp cái gì, giường đã làm ấm, rèm cũng buông, đợi thêm mấy giây đáng là bao, ta có chuyện muốn cầu ngài!” Kịch hát có câu, “Diễn xuất thu hút không thể hiện trên khuôn mặt, thần thái tất cả tại ánh mắt”, Phi Lai Phượng tung một đôi mị nhãn, quyến rũ phong tình, khiến Bạch Kiểm Lang toàn thân ngứa ngáy, hơi thở gấp gáp: “Cầu cái gì, cứ nói thẳng? Tiền Bạch gia ta không thiếu, nếu thích ta sai người mang đến ngay bây giờ!” Phi Lai Phượng dựa vào ngực Bạch Kiểm Lang, ngón tay ngọc thon dài vuốt ve cằm hắn: “Ta có mấy thân thích từ Quan Đông tới, từ lâu đã nghe uy danh của Bạch gia, muốn đến trước mặt dập đầu thỉnh an, lại sợ chọc ngài nổi giận.” Bạch Kiểm Lang ôm người đẹp trong lòng, gật đầu đồng ý: “Nổi giận cái gì chứ? Thân thích của ngươi cũng không phải người ngoài, hôm nào gọi bọn hắn qua đây, bái lạy xong sẽ có thưởng!” Phi Lai Phượng nói: “Bọn họ đã tới rồi, cả đám đều đang đợi bên ngoài!” Không chờ Bạch Kiểm Lang phản ứng, thân thể đã như con cá chạch, nhanh chóng tuột khỏi lòng hắn, ra cửa vén rèm, từ bên ngoài có bốn người bước vào, chính là Đậu Chiêm Long, Hải Đại Đao, Lão Tác Luân cùng Tiểu Đinh Tử!
Bạch Kiểm Lang thoáng ngẩn người, lập tức nhận ra đôi mắt cú của Đậu Chiêm Long, cũng nhận ra Hải Đại Đao, cả đời hắn giết người cướp của, kẻ thù khắp nơi, không ít lần bị người ám toán, bản thân lại là phỉ tặc, thường xuyên lo lắng quan phủ truy nã, ra ngoài đương nhiên đề phòng khắp nơi, cho dù to gan lớn mật, cũng không dám mắc nửa điểm sai lầm. Tuy nhiên sơn trang này của hắn hào sâu tường cao, một khi đóng chặt đại môn, ra không được vào không xong, hắn lại có bảo đao hộ thân, khách dự tiệc mừng thọ hơn phân nửa là phỉ tặc giết người không chớp mắt, mấy thằng ranh con thực không biết tìm đường chết, dám theo gánh hát trà trộn vào sơn trang. Bạch Kiểm Lang không nổi giận, ngược lại ngửa mặt lên trời, bật cười ha ha: “Chẳng trách bảo đao của ta leng keng trong vỏ suốt đêm, thì ra là đòi tắm máu!” Trong phòng trống trải, giọng hắn lại oang oang, chấn đến cửa sổ rung bần bật, đám người Đậu Chiêm Long bất đắc dĩ lùi lại hai bước. Bạch Kiểm Lang cười gằn, hung tợn nói: “Đã tới rồi thì đừng đi, Bạch gia ta sẽ ban thưởng hậu hĩnh!” Lời còn chưa dứt, thân hình chợt lóe, bật lên như lò xo, xoẹt một cái rút bảo đao ra khỏi vỏ. Đậu Chiêm Long trừng đôi mắt cú nhìn thật kỹ, thấy phía sau hắn rõ ràng có một con sói hung dữ, ẩn mình trong sương mù, bất chợt nhớ lại bữa tiệc cá tầm năm đó, không khỏi lông tơ dựng ngược. Ba tên sơn phỉ nhìn bảo đao sắc lạnh trong tay Bạch Kiểm Lang, ai cũng sợ đến toàn thân run rẩy!
Còn tiếp…