Chương 5
ĐẬU CHIÊM LONG XÀO ĐỒ ĂN
3.
Đậu Chiêm Long ngây ngốc tại chỗ, qua hồi lâu vẫn không thể bình tĩnh trở lại, lòng như sóng cuộn biển gào, tiếc thương chú chó Quyển Mao Tiếu trung thành, liều mình cứu chủ, chết một cách bi thảm, kiểu gì cũng phải tìm đường xuống đáy cốc, đào hố chôn nó, tránh cho thú gặm chim rỉa, phơi xương nơi rừng sâu núi hoang, bằng không ngày nào đó xuống Địa Phủ, sao còn mặt mũi gặp lại Quyển Mao Tiếu? Nhưng giữa rừng sâu núi thẳm không dấu chân người, lại không có chó săn dẫn đường, một mình hắn tự tìm đường xuống sơn cốc, loay hoay nửa ngày vẫn không xong. Chẳng biết ông trời giận dỗi ai, khiến gió tuyết liên tục không ngừng. Tuyết trên núi Quan Đông rất dày, gió lại mạnh, xuyên qua khe núi tạo thành lốc xoáy, len lỏi trong rừng thông, cuốn theo lá khô/bông tuyết, từng đợt từng đợt quất vào người hắn, dấu chân đều bị tuyết bao phủ, nếu vì khó khăn muốn rút lui, cũng không thể tìm thấy đường quay lại.
Màn đêm buông xuống, không khí trong núi trở nên băng giá, lạnh đến tê cóng, mỗi bước chân đi chỉ thấy nhũ băng sắc nhọn, hàn khí dày đặc, gió tuyết thét gào, cây cối ngả nghiêng, cũng không át nổi tiếng sói tru từ xa vọng lại, khiến người tê dại da đầu. Mũ da của Đậu Chiêm Long phủ một lớp sương dày, áo da đông cứng, giày dưới chân đóng băng, ngả nghiêng đâm loạn, càng đi lòng càng sợ hãi, không biết bao lâu nữa mình sẽ bị chết cóng. Sớm biết như vậy, không bằng đánh cược tính mạng, xé rách mặt Bạch Kiểm Lang trong bữa tiệc cá tầm, cho dù thất bại cũng không cảm thấy có lỗi với liệt tổ liệt tông, thà bị hắn chém một nhát thành hai nửa, còn hơn chết cóng hay bị dã thú ăn thịt trong núi sâu rừng già. Đang lúc hết đường xoay xở, hắn chợt nhớ đến bảo bối của Đậu Lão Đài trên người, nếu cắt mạch máu, nhét bảo bối kia vào trong, dựa vào thuật tầm bảo khai sơn thám hải, dễ dàng thoát cảnh khốn cùng. Chỉ là kết cục của kẻ tầm bảo sờ sờ ngay trước mắt, huống chi tổ tiên nhà họ Đậu đã có di huấn, không để con cháu đời sau theo nghề này, nguyên nhân vì sao hắn cũng không biết, chỉ mơ hồ cảm thấy đây chính là mầm tai hoạ, hắn chăm chỉ làm học đồ ở phủ Bảo Định, lại theo Can Tử Bang chạy đến Quan Đông, chịu nhiều cực khổ, gặp nhiều gian nan như vậy, chẳng phải vì không muốn tầm bảo sao? Dựa vào bản lĩnh của chính mình, một lòng kinh doanh buôn bán, chẳng phải cũng có thể phát tài sao?
Đậu Chiêm Long cảm thấy uất nghẹn, bước chân càng đi càng chậm, giống như đeo chì, mắc kẹt trong lớp tuyết dày đến đầu gối, không thể rút ra. Trước mắt chỉ thấy đen trắng đan xen, thực hư khó phân biệt, đầu óc cũng dần mơ hồ, chỉ muốn nằm lăn ra chờ chết, đúng lúc này, hắn bất chợt nhìn thấy một cô gái, chính là A Điệp - lúc trước đã thắt cổ tự tử tại phủ Bảo Định. Đậu Chiêm Long mơ màng, thầm nhủ chẳng lẽ mình đã chết? Xem ra các cụ nói không sai, quả nhiên con người sau khi chết thứ gì cũng biết, muốn gọi tên nàng, nhưng làm thế nào cũng không thể mở miệng. Chỉ thấy A Điệp rơi hai hàng lệ, há miệng mà không nói nên lời, vươn tay chỉ về một hướng, cúi đầu chào Đậu Chiêm Long, sau đó liền biến mất. Đậu Chiêm Long giật mình kinh hãi, phát hiện mình đang nằm trên mặt tuyết, tay chân gần như đông cứng, vùng vẫy đứng dậy, nhìn ra xung quanh, không thấy A Điệp đâu hết? Hắn cắn chặt răng, lảo đảo đi về hướng A Điệp chỉ, xuyên qua gió tuyết, mơ hồ nhìn thấy chút ánh sáng. Đậu Chiêm Long không khỏi giật mình, cho rằng gặp được thợ săn trong núi, xoay người lạy vài cái, cất bước đi xuống dưới cốc.
Núi Quan Đông quanh năm đều có người săn thú, mùa đông vào núi gọi là “Đông thú”, chuyên đánh bắt dã thú lông dày thịt béo. Đậu Chiêm Long thấy có đường sống, loạng choạng chạy tới nơi, trừng đôi mắt cú nhìn kỹ, thấy có ba người, trang phục tương tự, đội mũ lông chó, mặc áo da báo, chân quấn xà cạp, xỏ ủng nỉ, mũi giày bịt đồng có thể đạp đổ núi/dẫm chết hổ, eo buộc song đao, lưng đeo cung tên có dây căng bằng gân hươu, đang ngồi sưởi ấm quanh đống lửa. Thợ săn quan ngoại cùng sơn phỉ ăn mặc giống nhau, khác ở chỗ thợ săn cầm xiên/dắt chó săn, sơn phỉ không mang theo chó. Ba người kia đeo cung tên trong rừng sâu, lại không dắt theo chó săn, chín phần mười chính là phỉ tặc chiếm núi làm vua!
Đậu Chiêm Long thầm than một tiếng “Xui xẻo”, mới thoát khỏi đầm rồng lại rơi vào hang hổ, chẳng biết trách ai, chỉ tại mình số con rệp, hắn không dám kinh động đối phương, nhấc cao chân bước thật nhẹ, xoay người sang hướng khác, đang muốn bỏ chạy, chẳng may trên mặt đất đều là tuyết đọng, bước nhẹ cũng phát ra động tĩnh. Ba người kia nghe tiếng sột soạt, lập tức rút đao vác gậy, một đám như lang như hổ, mấy bước vọt tới đây, mắt lóe hàn quang, chĩa mũi đao về phía Đậu Chiêm Long. Đậu Chiêm Long thấy một người trong đó vóc dáng thấp bé, thân hình gầy gò, khuôn mặt tái nhợt, lông mày gà chọi, hai mắt ti hí, mũi khoằm cằm nhọn, ria mép vàng hoe; một người khác tay vượn eo gấu, thân thể cường tráng, đầu bẹt cằm vuông, hai hàng lông mày thô rậm, mắt to như chuông đồng; còn có một người không cao không lùn, tướng mạo xấu xí, mũi tẹt mắt tam giác, mặt đầy vết đốm màu đen, nhìn xa giống quả lê đông lạnh, nhìn gần trông như da mèo rừng. Đậu Chiêm Long chợt nảy ra ý nghĩ: “Trông bộ dạng ba vị này, nhất định chính là sơn tặc, nhưng xem ra không phải đàn em Bạch Kiểm Lang. Gặp phải sơn tặc giặc phỉ, mình còn hy vọng một con đường sống, bởi núi Quan Đông dân cư thưa thớt, sơn phỉ cướp tiền không giết người, nếu giết sạch, sau này biết cướp của ai? Bạch Kiểm Lang thì khác, vừa cướp vừa giết, vạn nhất hắn phái thủ hạ truy sát, mình chỉ có đường chết mà thôi!” Nghĩ vậy, vội vàng móc hết bạc vụn cùng ngân phiếu trong người, vẻ mặt đáng thương cầu xin: “Tôi là tiểu nhị Can Tử Bang, đi lạc trong núi, không ngờ gặp được ba vị tráng sĩ, trên tay chỉ có chút bạc, mong các vị giơ cao đánh khẽ, lưu tiểu nhân một mạng! Tên có vóc dáng thấp nhỏ hai mắt sáng ngời, đoạt lấy ngân phiếu, lật qua lật lại kiểm tra, lạnh giọng mắng: “Mẹ nó, định gạt quỷ hử? Núi sâu tuyết dày, ngươi vào rừng làm ăn với gấu đen chắc? Chẳng lẽ do Bạch Kiểm Lang phái đến thăm dò?” Đậu Chiêm Long nghe đối phương nhắc đến ba chữ “Bạch Kiểm Lang”, lập tức hoảng hốt, có điều nếu bọn họ là đàn em của Bạch Kiểm Lang, sao dám gọi thẳng tên như vậy? Vì thế hắn mơ hồ hỏi lại một câu: “Bạch… Bạch… Bạch Kiểm Lang?” Ba người đưa mắt nhìn nhau, gã to xác nói với tên có vóc dáng thấp nhỏ: “Lão tam, ta thấy thằng nhóc này trung thực, lại không phải khẩu âm Quan Đông, không giống làm chó săn cho Bạch Kiểm Lang.” Tên có vóc dáng thấp nhỏ trừng mắt nói: “Đại ca, ngươi thấy hắn trung thực chỗ nào nào? Gian manh xảo quyệt thì có, hai mắt sắc như mắt cú, còn giả bộ không quen biết Bạch Kiểm Lang, ta đang buồn muốn chết, không bằng hành hạ hắn, treo ngược lên cây, mổ bụng moi gan nhắm rượu chơi!” Gã to xác nhíu mày, quay đầu hỏi tên xấu xí: “Lão nhị, ngươi thấy sao?” Tên xấu xí trầm mặc không nói lời nào, nhưng từ ánh mắt nham hiểm, không khó nhìn ra tâm tư của hắn.
Đậu Chiêm Long làm nghề buôn bán, giỏi nhất là xem mặt đoán ý, thấy lúc ba người đề cập đến Bạch Kiểm Lang, đều nghiến răng nghiến lợi, vẻ mặt căm phẫn, sát khí bộc phát, không hỏi cũng biết, nhất định có thâm thù đại hận với Bạch Kiểm Lang, vội nói: “Không dám gạt ba vị, tôi theo Can Tử Bang chạy đến Quan Đông, định kiếm thêm chút tiền, cho nên không về quê, làm chân phụ bếp trong bữa tiệc cá tầm, chỉ vì tổ tiên kết thù với Bạch Kiểm Lang, không may bị hắn nhận ra, hận không thể đem tôi rút gân lột da, tôi nhân lúc đêm khuya trốn ra ngoài, lại bị Bạch Kiểm Lang thả chó săn truy đuổi, cũng may tôi mang theo Quyển Mao Tiếu, nó liều chết cứu tôi, kéo sáu con chó săn lao xuống đáy cốc. Tôi không đành lòng nhìn nó phơi thây trong núi hoang, muốn tìm đường xuống dưới, kết quả đi lạc, vô tình đến nơi này.” Tên có vóc dáng thấp nhỏ hỏi: “ Quyển Mao Tiếu mà ngươi nói… có phải từng chiến đấu với một con báo hay không?” Đậu Chiêm Long gật đầu thật mạnh: “Đúng đúng, bị rách nửa bên mặt, to như ngựa con, ngài cũng biết con chó vàng của tôi sao?” Tên có vóc dáng thấp nhỏ nói: “Quyển Mao Tiếu là chó săn có tiếng ở núi Quan Đông, ai mà không biết? Nếu như rơi xuống Càn Phạn Bồn, chắc chắn thân thể nát nhừ, tuyết rơi phủ một lớp, sợi lông cũng không tìm thấy. Ta khuyên ngươi nhân lúc còn sớm, mau từ bỏ ý định, không ai có thể xuống đó đâu...” Đậu Chiêm Long nghe xong, trong lòng buồn bã. Ba tên sơn phỉ thấy hắn không phải đàn em của Bạch Kiểm Lang, sắc mặt cũng hòa hoãn không ít, chẳng hề kiêng kỵ, lần lượt báo danh hiệu, tên to xác kêu “Hải Đại Đao”, tên quỷ xấu xí lòng dạ thâm sâu kêu “Lão Tác Luân”, tên có vóc dáng thấp nhỏ kêu “Tiểu Đinh Tử”. Bọn họ đều mang danh phỉ tặc, nhưng không phải loại cường đạo giết người cướp của. Tổ tiên Hải Đại Đao là quan binh triều đình, truyền đến đời hắn, làm việc trong Nha môn tổng quản Đả Sinh Ô Lạp, giữ chức Kiêu kỵ hiệu uý, quản lý không ít hộ đào sâm cùng săn bắt, Tiểu Đinh Tử và Lão Tác Luân là thủ hạ của hắn, theo hắn đã hơn mười năm, coi như phụ tá đắc lực. Ba người dựa núi kiếm miếng ăn, cưới vợ sinh con, cuộc sống vốn trôi qua khá tốt, nhưng từ khi Bạch Kiểm Lang nắm giữ Sâm bang, số lượng chày gỗ giao cho triều đình đã không ít, còn phải đưa hắn thêm một phần, bức tử không ít hộ đào sâm. Mấy năm trước, Tiểu Đinh Tử đào chày gỗ không đủ số, bị đàn em của Bạch Kiểm Lang đánh cho thập tử nhất sinh. Hải Đại Đao nhịn không được, vung đao chém chết mấy tên chó săn, dẫn theo Lão Tác Luân cùng mười mấy hộ đào sâm, kéo bè kết đảng, cùng nhau lên núi làm thảo khấu. “Sơn phỉ” thời đó, nhiều thì mấy chục, ít thì dăm ba người, có thế lực/địa bàn riêng, không giết người phóng hỏa, càng không chiếm hàng cướp tiền, mà là đào chày gỗ/săn thú lột da, chẳng qua không cống nộp, tự mình bán cho người thu mua, nếu để triều đình bắt được, chắc chắn đầu lìa khỏi cổ. Hải Đại Đao lớn tuổi nhất, là người tốt bụng, trước kia từng làm quan, làm sơn phỉ cũng là thủ lĩnh, theo quy củ Sâm bang, gọi là “Đại Bả Đầu”. Bạch Kiểm Lang không dung thứ hộ đào sâm tạo phản, giết hết gia đình Hải Đại Đao cùng những người khác, không ngừng phái thuộc hạ vào núi truy sát. Đám người Hải Đại Đao hết sức cẩn thận, mặc dù trời đông giá rét, không đào được chày gỗ, cũng không dám xuống núi đi loạn, chỉ loanh quanh trong rừng sâu, bắt mấy con thú hoang, lột da sưởi ấm, cắt thịt ăn đỡ đói, trú tại sơn động hoặc túp lều, cuộc sống chẳng khác gì dã thú. Muốn săn được con mồi phải di chuyển khắp nơi, trời tối không kịp quay về chỗ ở, đành tìm chỗ kín gió đốt lửa sưởi ấm. Đậu Chiêm Long số mệnh chưa tuyệt, trong lúc cùng đường, đụng phải ba người bọn họ.
Sau khi biết rõ lai lịch đối phương, Hải Đại Đao hất cằm, bảo Tiểu Đinh Tử trả lại ngân phiếu cho Đậu Chiêm Long, nói: “Ngươi đã là kẻ thù của Bạch Kiểm Lang, bọn ta không những không giết ngươi, không cướp của ngươi, mà sẽ còn giúp đỡ ngươi, không biết tiểu huynh đệ muốn đi đâu lánh nạn?” Đậu Chiêm Long cúi đầu thật sâu, đáp: “Tôi định đến bãi hải sâm tránh họa, lại sợ Bạch Kiểm Lang dẫn người truy đuổi, cầu xin ba vị chỉ cho tôi đường qua núi...” Tiểu Đinh Tử ngắt lời: “Ngươi không thể đi, cách đây không lâu có giặc nước ngoài quấy nhiễu biên cảnh, giết người phóng hỏa ở bãi hải sâm, toàn bộ đã bị đốt sạch.” Đậu Chiêm Long không ngừng than khổ, Bạch Kiểm Lang là kẻ ác độc, thấy chó săn có đi không về, nhất định sẽ tiếp tục phái người đuổi giết, biết làm sao bây giờ? Hải Đại Đao nói: “Cứu người cứu đến cùng, tiễn Phật tiễn đến Tây Thiên, ngươi đi theo ba người bọn ta, tránh trong núi qua mùa đông, đói có thịt thú, lạnh có lông chồn, trốn trong hang đá không ra ngoài, Bạch Kiểm Lang cũng không tìm được ngươi. Chờ thời tiết ấm lên, bọn ta xuống núi bán chày gỗ, sẽ mang ngươi nhập quan.” Đậu Chiêm Long trong lòng ấm áp, thầm nhủ “Không thể trông mặt mà bắt hình dong”, ba tên sơn phỉ tướng mạo tuy dọa người, tâm địa lại tốt, xứng đáng gọi là lục lâm hảo hán, lập tức cúi đầu bái lạy: “Ơn cứu mạng chẳng khác gì tái tạo, đại ân đại đức của ba vị, tôi chẳng có gì báo đáp, xin được dập đầu cảm tạ!” Hải Đại Đao vươn tay đỡ hắn dậy, kéo đến bên đống lửa, cùng với hai người còn lại quây thành một vòng, ăn chút thịt hươu nướng cho đỡ đói. Tiểu Đinh Tử thấy toàn thân Đậu Chiêm Long phủ băng sương, liền bỏ mấy nắm tuyết vào ấm sành, lại cho thêm vài miếng gừng dại, nấu lên cho hắn uống, đến khi trán lấm tấm mồ hôi. Bốn người thay phiên chợp mắt, lấy lại sức lực, ngả nghiêng dẫm từng bước trên lớp tuyết dày, một đường đi sâu vào trong núi. Một vùng hoang sơn dã lĩnh rộng lớn, trải dài mấy trăm dặm, không biết đâu là điểm cuối, tuyết phủ trắng xóa, vô cùng vô tận. Khe suối có túp lều của người hái nấm, mùa đông giá buốt không ai ở, trở thành nơi sơn phỉ dừng chân. Túp lều bốn mặt trống trải, gió thổi vù vù, mùa hè còn đỡ, mùa đông làm sao ở? Người dân nơi quan ngoại có biện pháp, đắp bên ngoài túp lều một lớp tuyết thật dày, sau đó đổ nước lạnh lên trên, chớp mắt liền đóng thành băng, gió thổi không lọt, tuyết đè không sụp, có thể so với tường đồng vách sắt. Tiếp theo dùng đá vụn, cành cây, trộn lẫn với tuyết, đắp thành vách chắn tại nơi đầu gió, hầu như có thể cản được gió lạnh xuyên thấu, bên trong lại đốt chậu than, trải thảm lông, cũng đủ để qua được mùa đông. Đậu Chiêm Long làm học đồ trong hiệu buôn ở phủ Bảo Định ba năm, sau đó làm công ba năm, luyện thành miệng lưỡi khôn khéo, có thể kiếm tiền, còn biết xào rau/nấu cơm, mặc dù tay nghề không cao, nhưng cũng khá hơn nhiều so với mấy tên sơn phỉ chỉ biết hầm nướng.
Lúc trước, ba tên sơn phỉ kiêng kỵ đề phòng Đậu Chiêm Long, lo hắn là đàn em của Bạch Kiểm Lang đến do thám, lúc này đã thay đổi cách nhìn, không còn nghi ngờ. Đợi khi thời tiết ấm hơn đi đào chày gỗ, tiền thu được sẽ có phần của hắn, tuyệt không lãng phí vô ích một năm này. Bọn họ giữ đúng lời hứa, qua năm sau băng tuyết tan rã, bốn người Đậu Chiêm Long, Hải Đại Đao, Lão Tác Luân, Tiểu Đinh Tử rời khỏi túp lều, mang theo đầy đủ dụng cụ cần thiết, cung đao gậy gộc, đến một hố trời* trong núi. Nơi này có ngôi miếu cũ, thường gọi là “Bổng Chùy Miếu”, sơn phỉ các nơi trước khi đào chày gỗ, nhất định đến đây thắp hương, dập đầu bái tế thần linh, cầu Tổ sư gia phù hộ mình đào được nhiều “hàng”, ít gặp quan binh. Đậu Chiêm Long không hiểu quy củ Sâm bang, không dám nói năng lộn xộn, chỉ làm theo ba tên sơn phỉ, quỳ xuống dập đầu, khẩn cầu tổ tông chày gỗ phù hộ. Tế bái xong xuôi, Hải Đại Đao dẫn bọn họ rời khỏi Bổng Chùy Miếu, một đường tiến sâu vào núi rừng mênh mông vô tận. Núi Quan Đông chia ra làm ngoại sơn (ngoài núi) và thâm sơn (sâu trong núi), đào vàng, đào sâm, săn thú chỉ đi loanh quanh ngoài núi. Sơn phỉ lăn lộn trong rừng sâu núi hoang, đầu buộc lưng quần (mạo hiểm) đào chày gỗ, không phải cái gì cũng không sợ, trước tiên phải tránh mặt quan binh, thứ hai là tránh thoát nanh vuốt của Bạch Kiểm Lang, thứ ba chẳng ai dám thực sự đi sâu vào trong núi, cùng lắm chỉ loanh quanh tại giao giới giữa ngoại sơn và thâm sơn, bởi quan ngoại là bảo địa, vạn vật đều có linh tính, cho dù là lu nước, cái chổi, cối xay, hũ tương… dùng lâu năm ở nông thôn, đều có thể dính tiên khí, không chỉ tồn tại “Hồ Hoàng Thường Mãng Quỷ”, mà còn có “Hôi Hắc Tang Cổ Bì”. Tại nơi thâm sơn cùng cốc, biển rừng mênh mông, xem chừng không ít mấy thứ xuất quỷ nhập thần* !
*Xuất quỷ nhập thần: ý nói tới lui bất chợt, không thể nắm bắt.
Hố trời - Thiên Khanh (天坑)
坑 - Khanh: có nghĩa là hầm, hố.
天坑 - Thiên Khanh là loại hình địa lý đặc biệt, vách dựng đứng giống như giếng nhưng dung tích lớn hơn rất nhiều, đáy thông với mạch nước ngầm.
Hết chương