TRUYỆN ĐƯỢC DỊCH HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ, NHẰM THỎA MÃN NHU CÂU ĐỌC TRUYỆN CÁ NHÂN.


XIN VUI LÒNG KHÔNG MANG BẢN DỊCH ĐI NƠI KHÁC HAY SỬ DỤNG CHO MỤC ĐÍCH THƯƠNG MẠI KHI CHƯA CÓ SỰ ĐỒNG Ý CỦA CHỦ TRANG.



CÁM ƠN!!!

2.2 Đậu Chiêm Long

 Chương 2

ĐẬU CHIÊM LONG XUẤT THẾ


2.

Lần đó, Can Tử Bang thu mua được một lô da sống thượng đẳng, tất cả đều là hàng hiếm, đưa đến quan nội có thể kiếm được bộn tiền. Đậu Kính Sơn rốt cuộc là người làm ăn, trong lòng cao hứng liền uống nhiều thêm mấy chén, trong lúc say rượu nhất thời lỡ miệng, nhéo cái má trắng hồng của Tái Đát Kỷ mà nói: “Tổ tông họ Đậu bọn ta tích cóp được chút mã đề tử kim (khối vàng hình móng ngựa), ước chừng để đầy sáu cái lu lớn, hết thảy đều chôn dưới quê. Có số vàng này, chẳng sợ ta mua bán thua lỗ, lúc nào cũng có thể trở mình! Chỉ cần nàng hầu hạ ta thật tốt, đảm bảo đời này nàng vàng bạc đầy người, ăn trắng mặc trơn!” Tái Đát Kỷ ra vẻ mừng rỡ, truy hỏi số vàng chôn ở đâu. Đậu Kính Sơn chỉ nói bốn chữ “Đại viện Đậu gia” rồi lăn ra giường ngáy khò khò.




Mã đề tử kim - khối vàng hình móng ngựa


Đậu Kính Sơn chân trước vừa rời đi, Bạch Kiểm Lang liền biết được hết thảy từ miệng Tái Đát Kỷ, hắn tin ả, nhưng lại không tin Đậu Kính Sơn, gom hết sáu lu móng ngựa bằng vàng ròng… giá trị lớn đến mức nào? Chồng lên còn không xấp xỉ núi vàng sao? Nếu không phải Đậu Kính Sơn uống say nói hớ? Chẳng lẽ do Tái Đát Kỷ nghe nhầm?


Bạch Kiểm Lang nhất thời không thể quyết định, thổ phỉ giết người không gớm máu có lòng nghi ngờ nặng nhất, không chứng thực, tuyệt không dám hành động thiếu suy nghĩ. Lập tức phân phó thủ hạ “sáp càn trụ” (cắm chốt), dẫn theo “Tuyến đầu tử” chuyên thăm dò tin tức, trà trộn trong đội xe của Can Tử Bang vào kinh. Can Tử Bang đồng hành cùng đoàn xe đưa cống phẩm Hoàng gia, mấy trăm chiếc xe lớn nối đuôi nhau, trải dài mấy dặm, phóng tầm mắt không thấy đâu là điểm cuối, trà trộn vào đó một vài người không khó. Dọc đường, hai tên thổ phỉ nói chuyện bóng gió cùng tiểu nhị Can Tử Bang, tìm hiểu thực hư, Đậu Kính Sơn thân là thủ lĩnh Can Tử Bang, lại là làm người sáng lập thương hội Nhạc Đình, nhắc tới hắn, bọn tiểu nhị đều có chuyện để nói: thương nhân Sơn Đông kiếm tiền mua thức ăn, thương nhân Sơn Tây kiếm tiền xây nhà, thương nhân Tân An kiếm tiền lập miếu thờ, thương nhân Nhạc Đình quen tích góp tiền vốn. Nhà lão Đậu tuy nhiều tiền, nhưng thương nhân không lấy vốn làm lãi, không thể nào dồn hết tiền bạc để xây nhà, tuy có đại viện tường vây, lúa gạo thành kho, la ngựa thành đàn, gà vịt thành bầy, tơ lụa thành hòm… nhưng coi trọng nhất vẫn là tiền vốn, coi đây là đảm bảo, vay tiền từ các tiền trang lớn, cái này kêu mượn gà đẻ trứng, cầm tiền người khác kiếm tiền, chỉ lời không lỗ. Tổ tiên nhà họ Đậu dùng bảo vật phát tài, con cháu đời đời làm ăn buôn bán, không biết đã tích trữ được bao nhiêu vàng, tóm lại trong nhà hắn chính là “Hài tử do quả phụ sinh — có cả gốc lẫn ngọn” ! Lại nghe một tiểu nhị từ Đậu Gia Trang tới nói, năm đó khi nhà họ Đậu xây phòng ở, dưới nền đất đã đào một căn hầm, hơn phân nửa dùng để chứa vàng, bất quá nơi đó cực kỳ bí mật, hạ nhân phải bịt kín mắt khi vào làm việc, dưới sự dẫn dắt của chủ nhân, vòng đi vòng lại trong đại viện nửa ngày mới đến nơi, ai cũng không biết chính xác căn phòng đó ở đâu, làm xong rồi lại bịt mắt đưa ra, đa số người dân địa phương đều nghe qua việc này, thật thật giả giả, lưu truyền đến ly kỳ cổ quái. Hai tên do thám theo Can Tử Bang đến tận Nhạc Đình, dựng lỗ tai nghe ngóng, đi lòng vòng quanh đại viện nhà họ Đậu, phát hiện chân tường mọc rải rác Phượng Nhãn Liên (lục bình hay còn gọi là bèo tây), do trời lạnh cho nên cằn cỗi. Dân gian truyền rằng, nơi nào có Phượng Nhãn Liên mọc, kim khí đương nhiên tràn đầy. Hai tên thổ phỉ trở về bẩm báo đúng sự thật, Bạch Kiểm Lang nửa tin nửa ngờ, sai người bắt tới một con gà trống, quỳ gối trong nhà tổ, thắp hương xin quẻ: “Ta sẽ vung đao chém bay đầu gà, nếu trong nhà Đậu Kính Sơn chôn mấy lu vàng, hãy để gà mất đầu nhảy nhót vài cái; nếu như vàng không đủ một lu, thì không cần nhảy nhót gì hết!” Một trận âm phong đột nhiên nổi lên, bảo đao rung động kêu leng keng, Bạch Kiểm Lang chém xuống một đao đứt đầu gà, gà không đầu đập đập hai cánh, liên tiếp nhảy sáu lần trên mặt đất, sau cùng mới lăn ra chết, máu gà bắn tung toé thành sáu vòng tròn. Bạch Kiểm Lang trông thấy rõ ràng, trong lòng nắm chắc!


Qua năm mới, Bạch Kiểm Lang lại phái hai tên thổ phỉ đi đạp đĩa*, nghiên cứu địa hình xung quanh Đậu Gia Trang, thôn trang có bao nhiêu Hương dũng*, mang theo vũ khí gì, chủ yếu là tìm hiểu kỹ đại viện nhà Đậu Kính Sơn có bao nhiêu tòa nhà, nhà có mấy gian, tường dày thế nào, cao bao nhiêu, có mấy người hộ viện, mấy canh tuần gác đêm, trong tay có vũ khí gì, bao nhiêu gậy gộc, bao nhiêu cung tiễn, bao nhiêu súng hoả, giờ nào nhóm lửa, giờ nào ăn cơm, khi nào tắt đèn, khi nào rời giường… càng chi tiết càng tốt. Ngoài ra, còn phải thăm dò xem phụ cận có bao nhiêu quan binh. Bạch Kiểm Lang tuy liều mạng, cũng không dám trực tiếp đối đầu chính quyền, bởi cho dù bảo đao của hắn có nhanh, cũng không thắng nổi súng hoả, quan binh tới ít còn đỡ, nếu như đại quân tập trung, hắn chỉ có thể kẹp chặt đuôi, nhanh chóng đánh bài chuồn.


*Đạp đĩa: chỉ hành vi thăm dò tình huống của gia chủ trước khi tiến hành trộm cắp/cướp bóc của đám phỉ tặc.


*Hương dũng: tương tự lực lượng tự quản/dân phòng ngày nay.


Căn cứ tin tức bọn chúng thám thính được, huyện Nhạc Đình phía Bắc là Loan Hà, Đông - Nam giáp biển, khoảng cách từ Đậu Gia Trang đến vịnh Bột Hải chỉ hơn mười dặm, tháng Chạp vùng duyên hải rét đậm, mặt nước đóng băng, không một bóng thuyền. Toàn bộ thôn trang có hơn hai trăm hộ gia đình, phần lớn là người cùng tông cùng tộc, chủ yếu sống bằng nghề buôn bán nhỏ. Vì là nơi quan trọng ở Trực Lệ, xưa nay chưa từng có nạn trộm cướp, trong thôn có mười mấy hai mươi Hương dũng, đều làm nghề nông, trang bị đơn giản là gậy gộc, chỉ một hai người có súng bắn chim, tuy nhiên chưa bao giờ sử dụng, một là không dùng được, hai là triều đình có lệnh, cấm dân thường dùng súng, rời khỏi phạm vi Tứ Cửu Thành* dưới chân thiên tử, quan phủ có thể mắt nhắm mắt mở đối với kẻ đầm đao, nhưng lại quản chế súng ống đạn dược cực nghiêm. Mấy cây súng cũ nát ở thôn trang đã nhiều năm không sử dụng, nhả đạn được hay không cũng không biết. Ngày thường, đội Hương dũng chỉ tuần đêm/đề phòng hỏa hoạn, tuyệt đối không phải đối thủ của đám phỉ tặc hại dân hại nước này. Khoảng cách từ Đậu Gia Trang đến huyện thành không xa, nhấc chân là đến, bên này có động tĩnh gì, huyện thành bên kia không thể không biết, bất quá trước khi trời sáng, khẳng định quan binh sẽ không tới. Nơi có quân binh gần nhất chính là đại doanh bảo vệ vùng biển, trừ phi nhận được lệnh điều động từ Binh Bộ, bằng không binh mã sẽ không động thủ, cho nên chẳng có gì đáng lo.



Tứ Cửu Thành (tức thành Bắc Kinh): bao gồm 4 cổng Hoàng thành: Thiên An Môn - Địa An Môn - Đông An Môn - Tây An Môn + 9 cổng Nội thành: Chính Dương Môn (tiền môn) - Sùng Văn Môn - Tuyên Võ Môn - Triều Dương Môn - Phụ Thành Môn - Đông Trực Môn - Tây Trực Môn - An Định Môn - Đức Thắng Môn. 


Lúc này Bạch Kiểm Lang mới hạ quyết tâm, hắn ủ mưu từng ấy thời gian, quyết định căng buồm ra biển, vòng qua Lão Long Đầu, đậu bên ngoài mặt băng, nhân lúc đêm hôm khuya khoắt, đột nhập Đại viện nhà họ Đậu, tốc chiến tốc thắng, đào trộm sáu lu vàng, sau đó trốn thoát bằng đường biển. Ban đêm không thể điều động quan binh, cho dù đuổi theo cũng đã muộn, bởi đám sơn tặc đến từ vùng núi lại đi đường biển! Có điều, thủ hạ của hắn chỉ có 20-30 người, sợ thế đơn lực mỏng, phá không thủng đại viện giống như két sắt của nhà họ Đậu, cho nên chiêu mộ rất nhiều Đao phỉ, số lượng lên đến gần trăm tên.


Đao phỉ ở quan ngoại không giống thổ phỉ, chỉ là một đám người sống tại vùng đất hoang, trong đó có kẻ ăn không nổi chén cơm lưu manh ở Quan Đông, có nô lệ không chịu được đòn roi của Vương gia Mông Cổ, có phạm nhân bỏ trốn sau khi bị lưu đày sung quân, có tăng đạo lạt ma lai lịch không rõ ràng, cũng có quân sĩ triều đình bị cách chức, không đủ tiền về quê, kết bè kết đảng lưu lạc nơi đây. Trên bình nguyên Tùng Hoa Giang - Nộn Giang (viết tắt là Tùng Nộn), vùng đầm lầy mênh mông vô tận, từng mảng từng mảng lớn, hàng năm khi gió thu về, giá lạnh kéo đến, bãi lau bãi sậy bị băng tuyết bao phủ, người có thể đứng vững bên trên, bọn họ liền đi cắt lau sậy bán lấy tiền. Người quan ngoại thường nói Người vào bãi sậy, lừa vào phường xay, không có công việc nào vất vả hơn cắt lau sậy, trời chưa sáng đã thức dậy, một đám tiến vào đầm lầy trong gió lạnh thấu xương, không dám mặc nhiều quần áo, sợ không đi nổi, lại sợ toát mồ hôi, bởi mồ hôi gặp giá lạnh sẽ đóng thành băng. Trên tay người làm việc cầm một cái liềm, vừa nhỏ vừa dài, lưỡi liềm cong cong, sắc bén vô cùng, quét trái quét phải, lau sậy rào rào đổ xuống, quanh năm suốt tháng làm việc này, ai nấy đều luyện thành tay to chân thô, eo rắn mông đùi chắc. Mỗi năm có đến sáu bảy chục ngày cắt lau sậy, bán đi kiếm chút tiền, thắt lưng buộc bụng, gặm bánh ngô chấm nước tương mới đủ ăn nửa năm. Tục ngữ nói bần cùng sinh đạo tặc, ngày thường cơm không đủ ăn, liền rủ nhau đi làm Đao phỉ, tay vung đao giết người cướp của, thấy cái gì đoạt cái nấy.


Bạch Kiểm Lang cấu kết với một đám Đao phỉ, nói phải làm một vụ lớn, điểm chính lan đầu hải*, dẫn các huynh đệ đi phát tài, đến nơi giết người, chia nhau một phần tài sản, tương đương tám mười năm vất vả cắt lau sậy. Còn việc đi đâu/giết kẻ nào, đầu sỏ như Bạch Kiểm Lang không nói, cũng chẳng ai muốn hỏi thêm, tránh càng nhiều người biết càng dễ lộ sơ hở. Bởi Bạch Kiểm Lang hiểu rõ hơn ai hết, Đao phỉ tên nào cũng ham uống rượu, chẳng may rượu vào lời ra, một khi kinh động Can Tử Bang, để đối phương báo quan, cho binh lính mai phục, dùng chiêu đóng cửa đánh chó, bắt ba ba trong giọ, chẳng phải biến mình thành thiêu thân, lao đầu vào lửa tự thiêu - chết không còn mảnh xương hay sao?


*Điểm chính lan đầu hải: tiếng lóng Thổ phỉ, ám chỉ mục tiêu có nhiều tiền.


Tái Đát Kỷ nhìn mặt đoán ý, phát hiện Bạch Kiểm Lang lộ vẻ hung ác, hàm răng nghiến chặt, xem ra thật sự muốn động thủ. Cô ả thấp thỏm, hối hận không nên lắm mồm, nói ra việc chôn vàng, Đậu Kính Sơn chết không quan trọng, cái chính là bản thân mất đi chỗ dựa, sau này ai bao nuôi mình đây? Ngược lại, vạn nhất Bạch Kiểm Lang thất thủ mất mạng, Tái Đát Kỷ càng luyến tiếc, chỉ sợ sau này không tìm được tình lang hợp ý như hắn. Vụ làm ăn này bất kể ai kiếm lời, cô ta chính là người chịu thiệt, vì thế tìm mọi cách ngăn cản. Trưa hôm nay, Tái Đát Kỷ gọi mấy món ăn nóng từ tửu lâu, còn rót một bầu rượu, ngồi xếp bằng trước bàn trên giường đất, vòng vo nói chuyện với Bạch Kiểm Lang, khuyên hắn đừng nhòm ngó Đại viện nhà họ Đậu. Ban đầu, Bạch Kiểm Lang chỉ tính ậm ừ cho qua chuyện, ai ngờ mụ đàn bà này dở thói lắm mồm, càng nói càng không biết chừng mực, thả ra toàn những lời nghe không lọt tai tai, khiến hắn đầu óc ong ong, vì thế giận dữ mắng: “Con mụ này, ngươi loạn cái gì? Ngứa da hay ngứa thịt?” Tái Đát Kỷ vẫn tiếp tục lải nhải: “Sao chàng không chịu nghe ta khuyên? Ta không nên nói với chàng, Đại viện nhà họ Đậu có chôn vàng, chàng đến nơi trời xa đất lạ, nhà Đậu Kính Sơn lại kín cổng cao tường, gạch xanh nhà ngói không dưới trăm gian, chàng không biết vàng chôn ở đâu, nấn ná tìm kiếm lỡ quan binh bắt được, thế chẳng phải mất cả chì lẫn chài sao?” Bạch Kiểm Lang nhíu chặt lông mày: “Bảo sao thế nhân đều nói kỹ nữ vô tình, con hát vô nghĩa’ , uổng công hai ta ân ái bấy lâu, xem ra ngươi vẫn luyến tiếc Đậu Kính Sơn!” Đánh người không tát vào mặt, mắng người không vạch chỗ yếu, tuy Tái Đát Kỷ xuất thân kỹ nữ, nhưng lại thật lòng thật dạ với Bạch Kiểm Lang, vừa nghe hai chữ “kỹ nữ” từ miệng hắn, lập tức tái mặt, đập bàn nổi đoá: “Ngươi là kẻ không có lương tâm, nếu không phải ta bao nuôi ngươi, ngươi có ngày hôm nay sao? Ta là kỹ nữ, thì ngươi là kẻ bám váy kỹ nữ!” Lời nói này ai cũng nuốt không trôi, huống chi là tên ma đầu giết người không gớm tay trước mắt. Trán Bạch Kiểm Lang nổi đầy gân xanh, cố kìm nén lửa giận, trầm mặt nói: “Lão tử quyết tâm đi cướp nhà Đậu Kính Sơn, ai cũng ngăn không được, chọc giận đừng trách ta băm xác!” Tái Đát Kỷ lộ vẻ bất cần, cô nương nhà thổ, ai chẳng đanh đá? Nếu đã nói toẹt gốc rễ, đơn giản là cá chết lưới rách, thuận miệng chửi mấy câu, nhảy phắt từ trên giường xuống đất, đỏ mặt tía tai, xỏ giày liền muốn xông ra ngoài: “Lão nương đi báo quan, xem ngươi có mạnh miệng nữa hay không!”


Bạch Kiểm Lang thầm giật mình, việc lớn như vậy há có thể huỷ trong tay một ả kỹ nữ ty tiện? Hắn cầm bầu rượu uống một hơi cạn sạch, sau đó đứng dậy, vác đao đuổi theo, ba bước thành hai, bắt kịp Tái Đát Kỷ, lập tức ngăn cản. Trên đường kẻ đến người đi, thấy bọn họ xảy ra tranh chấp đều dừng lại xem. Bạch Kiểm Lang không nói lời nào, tay phải giơ lên, nắm lấy chuôi đao sau lưng; tay trái hạ xuống, bắt được vỏ đao bằng da cá mập, động tác lưu loát, rút ra một thanh đao loang loáng hàn quang. Tái Đát Kỷ ỷ vào đám đông vây xem, hùng hổ xông lên, ưỡn ngực chỉ vào mũi Bạch Kiểm Lang mà mắng: “Ban ngày ban mặt, ngươi dám hành hung giết người sao? Các người xem đi, đây là phỉ tặc trên núi…!” Lời còn chưa dứt, chợt thấy hoa mắt, giống như có luồng gió mạnh ập vào giữa mặt, sau đó Bạch Kiểm Lang thu đao vào vỏ, xoay người rẽ đám đông rời đi. Người dân xung quanh chỉ thấy Bạch Kiểm Lang múa đao một cái, tiếp theo người phụ nữ kia không còn ầm ĩ nữa, cuối cùng đám đông giải tán trong tiếng xì xào bàn luận.


Tái Đát Kỷ hậm hực mắng: “Thách ngươi cũng không to gan như vậy, giết ta ngươi có thể chạy thoát sao?” Tuy miệng cô ta cứng, nhưng cũng lo Bạch Kiểm Lang chó cùng rứt giậu, quyết tâm đi báo quan, vội vội vàng vàng băng qua ba con phố, vừa đến cổng nha môn, bỗng cảm thấy cổ lạnh ngắt, đầu người đột nhiên rơi xuống, lăn lông lốc xa hơn một trượng, phun ra một ngụm máu tươi, xác chết cụt đầu đứng im không đổ, người qua đường kinh hãi, tạo thành một đám hỗn loạn!


Còn tiếp…


Total Pageviews

This Blog is protected by DMCA.com