Chương 7: TRƯƠNG MÙ ĐI ÂM
3.
Lại nói âm phong vừa thổi, Thập Tam Đao xấu xa liền không thấy đâu, đèn lồng trong tay Lưu Hoành Thuận cũng khôi phục nguyên trạng, đang nổ “tanh tách” bên trong chụp đèn. Anh ta tiếp tục đi về phía trước, chưa được nửa dặm, lại gặp một người. Vị này ngồi trên ghế cao, trước mặt là một cái bàn nhỏ, phủ khăn trải màu xanh thẫm, chính giữa phía trước thêu một chữ “Vương” thật lớn, trên bàn bày chiếc quạt, khăn tay, thước gõ, ấm trà cùng một ngọn đèn toả ánh sáng trắng. Thân mặc trường bào, áo khoác bên ngoài, bộ dáng chỉn chu hơn Thập Tam Đao, vạt áo đừng nói lỗ thủng/miếng vá, đến nếp gấp cũng chẳng có, phải nói là phẳng lì nhẵn nhụi, nút áo cài đến tận cổ, ống tay áo gập màu trắng, hai tay đặt trên bàn, ngồi đó ung dung bình tĩnh, vững như Thái sơn. Lại xem khuôn mặt ưa nhìn, lông mày thưa, mắt hẹp dài tựa hạt táo (tàu), chòm râu dài phất phơ trước ngực… diện mạo bình thường nhưng điệu bộ lại không nhỏ. Lưu Hoành Thuận nhận ra người này, chính là một vị tiên sinh kể chuyện nổi tiếng khắp Thiên Tân Vệ, giang hồ gọi là “Tịnh Nhai Vương”.
Tịnh Nhai Vương là người kể Bình thư, quanh năm biểu diễn ngoài phố chợ không ai quản lý, năng lực trên người không nhỏ. Lời nói tròn vành rõ chữ, trơn tru làu làu, há miệng là tuôn ra điển cố, pha chút giọng khàn khàn của kẻ hút thuốc uống rượu, tạo nên phong vị khác lạ. Eo không cong lưng không gù, thẳng tắp ngồi đó, kể đến đoạn hai quân giao tranh, liền đứng bật dậy triển khai tư thế, cái gì kêu cử hỏa thiêu thiên (châm lửa đốt trời), bạch hạc lượng sí (hạc trắng sải cánh - chiêu thức trong Thái Cực Quyền), thế nào là dạ xoa tham hải (dạ xoa thăm biển - chiêu thức trong Thái Cực Kiếm), lực phách Hoa Sơn (lực bổ Hoa Sơn)… điệu bộ vô cùng sống động, không biết còn tưởng hắn thật sự đã trải qua khổ luyện. Chẳng những nói hay, đề tài còn rất rộng, văn võ đều am hiểu, từ chuyện vặt ngoài phố chợ, đến thần quỷ yêu hồ, không có gì hắn không kể, chỉ cần hắn đập thanh gỗ trong tay một cái, người ở đầu ngõ cuối hẻm lập tức xúm lại, tất cả đều im lặng, chẳng ai hé răng nửa lời, người kéo xe bánh cao su dừng bước, trộm cắp ngừng tay, ăn xin từ bỏ, kẻ cháy nhà cũng không muốn về… hết thảy đều vểnh tai lắng nghe hắn kể chuyện, bởi vậy mới được đặt danh hiệu “Tịnh Nhai Vương”. Tịnh Nhai Vương tính tình cổ quái dị thường, chẳng quan tâm kiếm được bao nhiêu tiền, nguyện ý kể chuyện lề đường, người nghe vây kín ba tầng trong ba tầng ngoài, nóc nhà chạc cây cũng đều là người.
Lưu Hoành Thuận thấy Tịnh Nhai Vương bình tĩnh trầm ổn ngồi ven đường, ánh sáng trắng chập chờn chiếu lên khuôn mặt, hiện ra một tia quỷ dị, thầm nhủ: không trùng hợp vậy chứ, rõ ràng là đang chờ ta, để xem ngươi tác quái thế nào! Trong lòng anh ta đã có chủ ý, cúi đầu tiếp tục đi về phía trước, giống như không phát hiện đối phương, mày cũng không nhíu lấy một cái.
Tịnh Nhai Vương thấy Lưu Hoành Thuận không để ý đến mình, đứng dậy chắp tay nói: “Lưu gia, ngài vất vả rồi, việc gì phải đi gấp vậy chứ? Sao không đặt đèn lồng xuống, nghỉ ngơi chốc lát, ta hầu ngài một đoạn giải buồn, ngài biết không, ta kể chuyện không giống với người khác, ba câu không hút được người nghe, chữ “Vương” này của ta sẽ đảo ngược! Ấy, chữ “Vương” đảo ngược vẫn là chữ “Vương” thôi, được rồi, không đùa với ngài nữa, dài dòng mất hứng, hôm nay ta sẽ kể……” Vừa nói vừa cầm cây thước muốn gõ xuống một cái.
Lưu Hoành Thuận gặp Tịnh Nhai Vương
(Ảnh minh hoạ trong truyện gốc)
Lưu Hoành Thuận đứng im, liếc mắt nhìn Tịnh Nhai Vương: “Nhân lúc còn sớm, đừng ở đó chó uống nước lạnh * - miệng lưỡi xảo trá, người sáng mắt không nói tiếng lóng, trong lòng ngươi hiểu rõ, ta cũng biết tỏng hết rồi, chẳng phải ngươi muốn dập tắt đèn lồng trên tay ta sao? Muốn động thủ thì lên đi, xem ngươi chết hay ta chết...”
*Chó uống nước lạnh: loài chó uống nước bằng đầu lưỡi, ý bảo kẻ này ăn nói không thật lòng, lời nói ra chỉ bằng chót lưỡi đầu môi.
Tịnh Nhai Vương khoát tay, cười nói: “Lưu gia, đừng coi ta là tên nhà quê Thập Tam Đao, ngài làm vậy là mắng ta rồi, hắn làm nghề gì? Còn ta làm nghề gì nào? Bọn ta hành nghề kể chuyện, một cái miệng nói hết mọi thứ trên đời, hai hàm răng kể ra lòng người ấm lạnh, ngựa chiến giáp sắt, công hầu khanh tướng, tài tử giai nhân, thế thái nhân tình… đều nằm hết trong bụng ta đây, thước gõ* đập bàn gây sóng gió, quạt giấy nhẹ lay doạ quỷ thần, nói cái gì có cái nấy, giang hồ kính trọng kêu hai chữ ‘tiên sinh’, ta có thể động thủ với ngài sao? Ta không dùng võ mà dùng văn, ngài thấy thế nào?”
Tĩnh mộc - Thước gõ
Đạo cụ thường dùng khi biểu diễn Tướng Thanh/Bình Thư (nghệ thuật kể chuyện truyền thống TQ)
Lưu Hoành Thuận vốn không để “Tịnh Nhai Vương” trong mắt, một tên giang hồ kể chuyện, đường thẳng không đi, lại gia nhập Ma Cổ Đạo bày trò làm loạn, còn mặt mũi tự gọi mình là ‘tiên sinh’ ư? Văn võ cái quái gì, dùng văn thì thế nào? Ngươi đưa ta vế đối “Dê núi lên núi”, ta đáp trả một câu “Trâu nước xuống nước”, đến lúc đó ngươi nói có thể thêm từ, ta lại bảo thêm thì thêm, ngươi ra “Dê núi lên núi, núi đụng sừng dê núi”, ta đối “Trâu nước xuống nước, nước ngập mình trâu nước”, “dê” đối với “trâu”/“lên” đối với “xuống”… quanh đi quẩn lại chỉ có vậy, ai rảnh hơi tranh cao thấp cùng ngươi?
Tịnh Nhai Vương bình tĩnh kéo ống tay áo màu trắng, nói: “Ngài vội cái gì? Nhà cháy hay con trai ngã giếng? Chậm một tí thì đã sao? Không phải ta muốn làm khó ngài, biết ngài không đọc nhiều sách, nói sâu ngài cũng không hiểu, hay là thế này, ta kể cho ngài một khúc chuyện, đừng bảo ta không nói, khúc chuyện này chính là bảo bối giữ nhà của ta, vào nghề nhiều năm vẫn chưa bao giờ đụng tới, người kể chuyện ở Thiên Tân Vệ không ít, nhưng tính ra chẳng ai biết đến câu chuyện về “Âm Dương bảo phiến”.
Lưu Hoành Thuận chỉ muốn nhanh chóng quay về Đồn cảnh sát Hỏa Thần Miếu, không kiên nhẫn nghe mấy thứ lung tung, định trực tiếp xông lên dập tắt ngọn đèn của hắn, có điều vừa nghe tên truyện liền ngẩn người, thầm nghĩ: “Quan phủ nhiều lần tiêu diệt Ma Cổ Đạo, đáng tiếc không trừ được tận gốc, bao lần tro tàn lại cháy, thế nhân nghe nhầm đồn bậy, đều nói Chuông Câu Hồn, Quạt Âm Dương, Quan Tài Giấy, Vô Tự Thiên Thư là pháp bảo tà môn, hại không ít người, nhưng rốt cuộc chẳng ai biết chúng có lai lịch gì, dùng thế nào để hưng yêu tác loạn, Tịnh Nhai Vương gia nhập Ma Cổ Đạo, biết kể câu chuyện này cũng không lạ, nhưng có một số điều, hắn không thể nói thật cùng ta, ta cũng không tin hắn sẽ nói, chi bằng tiên hạ thủ vi cường - chớp thời cơ ra tay trước…”
Tịnh Nhai Vương thấy mặt Lưu Hoành Thuận phủ đầy sát khí, vội nói: “Lưu gia, vùng đất cuối Cửu Hà ai chưa từng nghe danh hiệu Phi Mao Thối Lưu Hoành Thuận? Ngài là Hỏa thần gia hạ giới, trấn thủ cửa sông Tam Xóa, đánh chết một tên kể chuyện như ta, khác gì bóp chết con rệp/dẫm chết con gián. Ta nào có bản lĩnh gì khác, vai không thể gánh, tay không thể cầm, tứ chi rời rạc, chẳng phân biệt được ngũ cốc hoa màu, sức trói gà không chặt, chỉ biết uốn ba tấc lưỡi kể chuyện, ngài dũng mãnh can đảm, năng lực lại lớn như vậy, chẳng lẽ không dám nghe câu chuyện của ta?”
Tính khí Lưu Hoành Thuận không giống người thường, chưa bao giờ khúm núm nịnh bợ ai, cũng không mấy người được anh ta thực sự coi trọng, tuy nhiên anh ta lại thích nghe người khác vuốt mông ngựa, chỉ cần nói ngọt dăm ba câu, anh ta liền cảm thấy có lý. Mấy lời của Tịnh Nhai Vương chính là như vậy, căn bản đã điểm trúng tử huyệt, câu nào câu nấy đi vào lòng người. Lưu Hoành Thuận thầm nghĩ cũng đúng, một tên giang hồ kể chuyện sao làm khó được ta? Vẫn nói: 3 năm cánh tay/10 năm chân, 20 năm khổ luyện không bằng một cái miệng, ta còn nhìn không thấu, chỉ bằng ba tấc lưỡi không xương của ngươi, còn có thể nói ra thứ gì ghê gớm sao?
Tịnh Nhai Vương thấy Lưu Hoành Thuận trúng kế, liền nói: “Được rồi, ngài có thể dừng chân ở đây, coi như đã nể mặt ta, xin nhận ân tình này của ngài, khắc ghi trong lòng, ngài chính là cha mẹ/cơm áo của ta, chỉ là… nào có ai cầm đèn lồng nghe kể chuyện, lát nữa ngài nghe đến đoạn đặc sắc, làm sao thưởng cho ta một tràng vỗ tay, phải không? Ngài cũng biết, ta kể chuyện là gây nghiện, ngài khen ‘hay’ một tiếng, ta dốc hết sức lực vì ngài cũng xứng đáng, chi bằng ngài đặt đèn xuống trước, giữa chúng ta có một cái bàn nhỏ, với bản lĩnh của ngài, còn sợ ta cướp mất hay sao?”
Lưu Hoành Thuận trước giờ không để ai trong mắt, biết trên núi có hổ, vẫn quyết tâm lên núi, đặt đèn lồng lên bàn, thầm nghĩ: “Bên ngoài đèn nến có lồng giấy, chẳng sợ ngươi một hơi thổi tắt, nếu có hành động khác thường, một tên kể chuyện như ngươi sao nhanh bằng ta, hơn nữa ngọn đèn của ngươi để tơ hơ trên bàn, ta chỉ cần thổi mạnh một cái là tắt ngấm.”
Tịnh Nhai Vương cúi đầu nhìn đèn lồng trên bàn, bật cười ha ha: “Ngài cứ yên tâm, ngồi yên ở đây, nghe ta kể câu chuyện về “Âm Dương bảo phiến”!” Dứt lời liền cầm thước gõ “ bộp” xuống bàn, lập tức bắt đầu:
Vẫn có câu “Người có nhân vận, trời có thiên vận”. Nhân vận có hưng-suy, thiên vận cũng như vậy. Thiên - Nhân tương ứng, xưa nay chưa từng thay đổi. Thiên vận hưng thánh nhân xuất thế, có thánh nhân sinh đúng thời cơ, cai trị thiên hạ; Thiên vận suy yêu ma loạn thế, cái này gọi là người yếu thế yêu ma tất hoành hành, yêu nhân ứng ma vận sẽ sinh ra, lu mờ nhật nguyệt.
Lời dẫn đã xong, chúng ta quay lại chuyện chính, ngài muốn nghe xin nhìn về phía Tây, tám trăm dặm Tần Xuyên * mịt mù bụi đất, nơi sông Hán hoà nhập cùng sông Gia Lăng ở phía Nam, có ngọn núi Đại Vương, cao đến vạn trượng, chọc thẳng lên trời, xung quanh đều là nước, xuất hiện dị bảo. Nhớ năm đó, Tổ sư gia Ma Cổ Đạo mở núi tìm báu vật, lấy được bốn pháp bảo là Chuông Câu Hồn, Quạt Âm Dương, Quan Tài Giấy cùng Vô Tự Thiên Thư.
* Tần Xuyên: khu vực Thiểm Tây-Cam Túc ngày nay.
Không nói dài dòng, bắt đầu vào truyện, khoan đề cập tới những pháp bảo khác, chỉ nói riêng Âm Dương Phiến, chính là tiên thiên linh bảo (vật báu trời sinh), có thể quạt ra mười luồng âm phong!
Nói đến đây, Tịnh Nhai Vương vươn tay cầm quạt giấy trên bàn, cây quạt này khung dài một thước hai, xoè ra bề ngang chừng tấc rưỡi, cán gỗ màu đen ánh đỏ, bên dưới treo lủng lẳng một mẩu xương, được khắc thành hình đầu quỷ, toát ra tà khí, tuyệt đối không phải vật tao nhã dắt trong tay áo. Lưu Hoành Thuận sớm đã phòng bị, muốn xem đối phương có thủ đoạn gì, chỉ thấy Tịnh Nhai Vương “xoẹt” một cái mở ra quạt xếp.
Hoa thương
Loại thương có tua đỏ ở đầu, thường thấy trong kịch hát truyền thống TQ
Theo quy tắc kể chuyện, cây quạt cũng không phải để quạt gió, cầm trong tay đương nhiên có chỗ cần dùng, cầm ngang là đao, cầm dọc là bút, hai tay nắm lại, tay phải đặt phía sau, tay trái đặt phía trước, vươn hai ngón chính là hoa thương*, mở ra đặt trên tay chính là thư tín. Tịnh Nhai Vương ngồi trên ghế làm thế sơn bàng*, chiếc quạt nâng lên giữa không trung, miệng không ngừng tuôn ra một tràng “Quạt thứ nhất cuồng phong nổi lên, quạt thứ hai đá bay tựa núi lở, quạt thứ ba trời đất u ám, quạt thứ tư không phân biệt nam bắc đông tây, quạt thứ năm nhổ bật thân liễu ngàn năm, quạt thứ sáu bẻ gãy cây tùng vạn tuổi…”, cứ thế niệm một câu lại quạt một cái, Lưu Hoành Thuận không khỏi lùi về phía sau một bước, ngọn lửa trong đèn lồng cũng co lại một chút. Anh ta muốn xông lên, dập tắt ngọn đèn của Tịnh Nhai Vương, nhưng bị cuồng phong chặn lại, nhấc không nổi chân, lê không nổi bước, chỉ nghe Tịnh Nhai Vương chậm rãi niệm tiếp: “Quạt thứ bảy nước sông dâng cuồn cuộn, quạt thứ tám Ngọc Nữ gõ Kim Đồng, quạt thứ chín khuấy đảo Điện Lăng Tiêu…” Lưu Hoành Thuận liên tiếp lùi về phía sau ba bước, ngọn lửa trong đèn lồng cũng chập chờn sắp tắt. Tịnh Nhai Vương bỗng ngừng miệng, mặt hiện lên nụ cười dữ tợn: “Lưu gia, câu cuối cùng này của ta sẽ không khiến ngài vướng bận nữa đâu!” Dứt lời liền giơ tay, muốn quạt xuống một cái. Lưu Hoành Thuận cảm giác hai chân như mọc rễ, không tài nào nhúc nhích, cho dù bản lĩnh đầy mình, cũng không thể thi triển, đôi bên cách nhau chín bước chân, vươn tay với không tới, khều chân chạm không nổi, muốn thổi cũng không thổi xa được như vậy, mắt thấy cây quạt của Tịnh Nhai Vương đã phất lên, thầm kêu “Thôi xong! Mắc bẫy tên khốn này rồi!” Đang định bó tay chịu chết, đột nhiên nhớ đến Kim Qua Lưu Tinh ngày thường vẫn dắt ở eo, chưa từng rời thân, khi cần là có, lập tức vung tay phóng ra, quát lớn một tiếng: “Diệt!” Tốc độ như tên bắn, đừng nói tiên sinh kể chuyện, bất kỳ ai cũng không càn được, chỉ thấy kim quang chợt lóe, một quả dưa vàng bay vèo về phía ngọn đèn. Tịnh Nhai Vương đang định niệm “Quạt thứ mười thổi bay Thủy Tinh Cung”, có điều chữ “Mười” còn chưa ra khỏi miệng, ngọn đèn trên bàn đã tắt ngấm, bất ngờ hét thảm một tiếng, sau đó liền biến mất không thấy tăm hơi.
Chú thích:
*Sơn bàng: động tác vũ đạo quen thuộc khi biểu diễn nghệ thuật truyền thống, hai cánh tay giang rộng, giơ cao hơn vai, bàn tay dựng lên giống như chữ “Sơn - 山” cho nên được gọi là “Sơn bàng”.
Còn tiếp…